CÓ CHĂNG MỘT NỀN CÔNG NGHIỆP CSSK VIỆT NAM?

Ở các nước phát triển trên thế giới, công nghiệp CSSK đã hình thành và phát triển trong thời gian dài với các lĩnh vực được quy định cụ thể nhằm quản lý và đầu tư nguồn lực tài chính hiệu quả cũng như chăm sóc tốt sức khỏe cho người dân. Vậy ở nước ta đã sẵn sàng và có cơ sở cho một nền công nghiệp chăm sóc sóc khỏe không?

Công nghiệp CSSK là gì?

Công nghiệp CSSK bao gồm những tổ chức cung cấp dịch vụ chẩn đoán, dự phòng, điều trị, các bệnh viện, các tổ chức y tế tư nhân, y tế công và tổ chức y tế tình nguyện. Công nghiệp CSSK còn bao gồm các nhà sản xuất – cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế. Một trong những lý do để khái niệm “công nghiệp CSSK” ra đời và ngày càng phổ biến trên thế giới là do sự phân biệt về khái niệm “sản xuất” và “dịch vụ” đã thay đổi. Mosby’s Medical Dictionary xuất bản năm 2009 định nghĩa: “Công nghiệp chăm sóc sức khỏe là toàn bộ các dịch vụ phòng bệnh, chữa bệnh và điều trị được cung cấp bởi các bệnh viện, các tổ chức, điều dưỡng, bác sĩ, nha sĩ, các nhà quản lý y tế, các tổ chức của Nhà nước, các đơn vị thể chế, các tổ chức tình nguyện, các cơ sở CSSK từ thiện, các nhà sản xuất trang thiết bị y tế, các nhà sản xuất dược phẩm và các tổ chức bảo hiểm y tế”.

Đặc điểm của thị trường công nghiệp CSSK

Đầu ra không được xác định rõ ràng bằng sản phẩm cụ thể: Dịch vụ CSSK có những đặc điểm khác với các dịch vụ và sản phẩm hàng hóa khác. Đầu ra của nhiều nền công nghiệp là những sản phẩm cụ thể nhưng đầu ra của dịch vụ CSSK không được xác định rõ ràng bằng các sản phẩm cụ thể. Đầu ra của dịch vụ CSSK không thể dự đoán và hiểu rõ bởi cả nhà cung cấp dịch vụ và cả người sử dụng hoặc thụ hưởng dịch vụ. Vì vậy, sự can thiệp của tổ chức thứ ba, tổ chức thanh toán chi phí (Cơ quan bảo hiểm y tế) và Chính phủ, cơ quan quản lý Nhà nước về CSSK là rất quan trọng và toàn diện. Mặc dù có sự khác biệt trên đây, thị trường chăm sóc sức khỏe vẫn phải tuân thủ các quy luật kinh tế cơ bản và việc phân tích kinh tế là rất quan trọng để xác định chính sách y tế công cộng.

Mất cân đối thông tin: Một đặc điểm của thị trường công nghiệp CSSK là sự mất cân đối thông tin. Người sử dụng dịch vụ và/hoặc sản phẩm (dược phẩm, trang thiết bị y tế, xét nghiệm…) hay nói cách khác người tiêu dùng của nền công nghiệp CSSK luôn luôn nhận được ít thông tin về nguy cơ và lợi ích của dịch vụ/sản phẩm hơn so với các nhà cung cấp dịch vụ y tế /thầy thuốc và nhà sản xuất, cung cấp sản phẩm thiết bị, dụng cụ y tế và dược phẩm. Vì vậy, các thầy thuốc và nhà sản xuất/cung cấp dịch vụ y tế đóng vai trò kép: Vừa là người tư vấn vừa là người cung cấp dịch vụ/sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Đối với việc khám chữa bệnh, hiện tượng này trở nên phức tạp hơn bởi vì thầy thuốc không chỉ thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh nói riêng hoặc CSSK nói chung cho bệnh nhân mà đồng thời lại phải chịu sự kiểm soát của bên thứ ba: người trả tiền (cơ quan cung cấp ngân sách nhà nước và/hoặc cơ quan bảo hiểm y tế) và nhà quản lý và hoạch định chính sách CSSK.

“Sự lạm tín”: Đây là khái niệm mà các nhà kinh tế dùng để mô tả tình huống mỗi cá nhân người bệnh đều có khuynh hướng mong muốn được hưởng thụ bất cứ dịch vụ/sản phẩm nào được kỳ vọng có lợi cho sức khỏe của họ nếu họ không phải trả tiền. Trên thực tế, có thể thấy rất nhiều dẫn chứng về “sự lạm tín” trong hệ thống khám chữa bệnh và CSSK như lạm dụng thuốc, lạm dụng kỹ thuật cao và các thiết bị đắt tiền (sophyscated medical equipment), lạm dụng xét nghiệm… hoặc người bệnh đòi hỏi được sử dụng các biệt dược gốc thay vì các thuốc generic có chất lượng và tác dụng tương đương với giá cả chấp nhận được… Các hành động này diễn ra trên quy mô lớn, phổ biến sẽ dẫn đến việc ngân sách y tế luôn luôn thiếu hụt không những chỉ vì thực trạng của nền kinh tế và nguồn lực tài chính quốc gia hạn hẹp mà còn vì không kiểm soát được lãng phí và bất hợp lý trong sử dụng ngân sách y tế và quỹ bảo hiểm y tế. Mặt khác, cơ quan bảo hiểm y tế với tư cách “bên thứ ba” chịu trách nhiệm thanh toán chi phí khám chữa bệnh và CSSK luôn luôn chịu áp lực cao về việc chi vượt thu, như người ta vẫn thường nói là nguy cơ “vỡ quỹ” bảo hiểm y tế.

Mục tiêu cuối cùng là hiệu quả đối với sức khỏe: Hiệu quả này chỉ có thể xác định là khả năng (xác xuất) trước khi cung cấp dịch vụ và cũng khó đo lường được ngay cả sau khi dịch vụ được thực hiện. Chăm sóc y tế không phải là yếu tố duy nhất quyết định cho sức khỏe mà các yếu tố khác như dinh dưỡng, luyện tập thể dục và lối sống có ý nghĩa quan trọng. Sự phân bổ có hiệu quả nguồn lực đầu tư vào khu vực y tế công hay y tế tư nhân đòi hỏi phải thận trọng đánh giá cân bằng chi phí và hiệu quả trên đầu ra của mỗi hệ thống.

Làm gì để có một nền công nghiệp CSSK lành mạnh?

Để một nền công nghiệp CSSK hoạt động lành mạnh, hợp lý và có hiệu quả, cơ quan quản lý y tế và các tổ chức bảo hiểm y tế cần phải có các biện pháp và sáng kiến nhằm kiểm soát và hạn chế hữu hiệu “sự lạm tín” cả ở phía bệnh nhân/người sử dụng dịch vụ/sản phẩm và cả những người/tổ chức cung cấp dịch vụ/sản phẩm CSSK. Những biện pháp/sáng kiến như vậy phải làm cho những nhà cung cấp dịch vụ/sản phẩm cân nhắc để cân bằng được giữa sự mong muốn trước mắt của bệnh nhân và lợi ích dài hạn của cơ quan bảo hiểm y tế và cơ quan quản lý ngân sách y tế trong một thị trường ngày càng phát triển của nền công nghiệp CSSK. Đây là điều mà người ta vẫn hay nói là chống “lạm dụng quỹ bảo hiểm y tế”.

Các lĩnh vực quản lý và đầu tư của nền công nghiệp CSSK

Nhằm mục đích quản lý và đầu tư nguồn lực tài chính, công nghiệp CSSK thường được phân ra các lĩnh vực khác nhau. Hệ thống chuẩn phân ngành công nghiệp quốc tế của Liên hợp (ISIC) chia công nghiệp CSSK thành 3 lĩnh vực: Hoạt động của các bệnh viện; Hoạt động thực hành y học và nha khoa; Các hoạt động khác CSSK cho người bao gồm các hoạt động của các điều dưỡng, nữ hộ sinh, các nhà vật lý trị liệu, các phòng xét nghiệm/chẩn đoán, các phòng khám, kể cả các thực hành liên quan đến y tế như thủy liệu pháp, dịch vụ xoa bóp y học, điều trị bằng yoga, điều trị bằng âm nhạc, đo khám mắt, điều trị bệnh nghề nghiệp, trị liệu ngôn ngữ, điều trị các bệnh về chân (chiropody), châm cứu, nắn cột sống (chiropractics)…

Tiêu chuẩn phân loại công nghiệp toàn cầu và Tiêu chuẩn phân loại công nghiệp chia công nghiệp CSSK thành hai nhóm chính: Dịch vụ y tế và thiết bị y tế; Công nghiệp dược phẩm, công nghệ sinh học và các ngành khoa học liên quan. Bên cạnh đó, có một cách tiếp cận rộng hơn khi định nghĩa về công nghiệp CSSK là bao gồm cả các hoạt động quan trọng khác liên quan đến sức khỏe như: Các tổ chức đào tạo, huấn luyện cán bộ y tế, các nhà quản lý cung cấp dịch vụ y tế, các nhà cung cấp dịch vụ y học cổ truyền và y học bổ sung (traditional and complementary medicine) và quản lý bảo hiểm y tế.

Thực tế nền công nghiệp CSSK ở một số quốc gia

Công nghiệp CSSK Thái Lan

Với dân số khoảng 67,96 triệu người (2015), theo số liệu nghiên cứu của Đại học Srinakharinwirol (Ấn Độ, 2016) thị trường công nghiệp CSSK Thái Lan đạt 24 tỷ US$ (2015) với tỷ lệ tăng trường bình quân hàng năm 15%.

Công nghiệp CSSK Singapore

Frost & Sullivan dự đoán thị trường công nghiệp sức khỏe Singapore giai đoạn 2012-2018 tăng trưởng bình quân hàng năm 11,4% và đạt giá trị 22,3 tỷ US$ vào năm 2018. Đây là một con số đầy ấn tượng khi dân số Singapore khoảng 5,5 triệu người (2015), chỉ bằng khoảng 1/20 dân số Việt Nam. Cũng cần chú ý là Singapore đã đầu tư mạnh mẽ vào khoa học – công nghệ và quản lý chất lượng để có một nền công nghiệp CSSK thông qua du lịch. Một nghiên cứu tiến hành năm 2011 cho thấy, hàng năm có khoảng 200.000 khách du lịch đến Singapore sử dụng các dịch vụ CSSK và chữa bệnh. Du lịch CSSK và chữa bệnh đã đem lại cho Singapore một doanh thu khoảng 3 tỷ SGD/năm.

Có chăng một nền công nghiệp CSSK Việt Nam?

Hiện nay chưa có một đánh giá chính thức về thị trường công nghiệp CSSK ở Việt Nam. Theo một nghiên cứu của Austrade và Australia Unlimited (2016), thị trường công nghiệp sức khỏe của Việt Nam ước tính là 13 tỷ US$ (2015) và dự đoán sẽ đạt 24 tỷ US$ vào năm 2020. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, số liệu về thị trường công nghiệp CSSK của Việt Nam trên thực tế có thể lớn hơn các số liệu nói trên vì Việt Nam chưa áp dụng hệ thống Tiêu chuẩn phân loại công nghiệp toàn cầu và việc thu thập số liệu vẫn còn manh mún, thiếu tập trung vừa không đầy đủ vừa bị trùng lặp.

Hiện nay, trên thực tế, theo Tiêu chuẩn phân loại công nghiệp toàn cầu và Tiêu chuẩn phân loại công nghiệp có thể thấy Việt Nam hội đủ các bộ phận cấu thành một nền công nghiệp CSSK bao gồm: Thị trường dịch vụ y tế (công và tư nhân), công nghiệp thiết bị y tế và công nghiệp dược phẩm, vắc-xin và các công nghiệp phụ trợ khác liên quan đến hệ thống CSSK (xây dựng bệnh viện, nhà máy dược phẩm, xử lý nước thải y tế và công nghiệp dược/vắc-xin…).

Trong những năm sắp tới, trong xu thế của toàn cầu cũng như khu vực, công nghiệp CSSK của Việt Nam chắc chắn sẽ có những bước phát triển vượt bậc vì những lý do sau đây:

Dân số Việt Nam ngày càng già: Các thế hệ sinh ra sau 1955 và 1975 bước vào tuổi già và cận già, là những nhóm người cần có sự CSSK nhiều nhất. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam ngày càng tăng. Nhờ có thuốc men và chăm sóc y tế, con người có thể sống lâu hơn, nhưng đồng thời cũng cần đến CSSK nhiều hơn.

Tăng dân số: Ngành y tế phải đáp ứng nhu cầu CSSK cho cả tầng lớp dân số trẻ, trung niên và người già với những yêu cầu riêng cho từng nhóm tuổi.

Sự tiến bộ của công nghiệp dược phẩm/vắc-xin/thuốc sinh học, công nghiệp trang thiết bị y tế công nghệ cao đang phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng cao.

Nền y tế đang trong tiến trình cải cách đảm bảo cho người dân ngày càng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ CSSK. Tính sẵn có của dịch vụ CSSK ngày càng cao.

Ngày càng có nhiều phương pháp mới chữa bệnh (HIV, ung thư, tim mạch, các bệnh liên quan đến chuyển hóa…) và các thiết bị y tế hiện đại được áp dụng ở Việt Nam.

Trình độ giáo dục và trình độ dân trí ngày càng cao: Công nghiệp CSSK ngày càng phát triển đòi hỏi lực lượng lao động phải thông qua trình độ cao đẳng hoặc đại học với thời gian đào tạo từ 4-6 năm trở lên.

Trước thực tế nêu trên, có lẽ đã đến lúc cần nghiên cứu kỹ các khái niệm, các đặc điểm, các bộ phận cấu thành của nền công nghiệp CSSK ở Việt Nam, nghiên cứu các quy luật kinh tế đang được vận hành trên thực tế trong lĩnh vực này để có định hướng xây dựng các chính sách và quy định quản lý Nhà nước thích hợp cho từng bộ phận cấu thành của nền công nghiệp CSSK của Việt Nam trong mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau để tạo nên sự phát triển hài hòa của cả hệ thống, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp CSSK nhân dân.

PGS.TS. Lê Văn Truyền (Chuyên gia cao cấp dược học, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

14 Vũ Trọng Phụng, Thanh Xuân, Hà Nội.

Hotline

Hotline

(+84)365 999 115

Email

Email

info@herac.org

Liên hệ

Liên hệ

với HERAC