Báo cáo chi phí tiếp thị y tế tại Hoa Kỳ, giai đoạn 1997-2016

📊Báo cáo chi phí tiếp thị y tế tại Hoa Kỳ, giai đoạn 1997-2016
Tác giả Lisa M Schwartz và cộng sự.  JAMA [2019].

❓️Câu hỏi:
Việc tiếp thị thuốc kê đơn, nhận thức của người tiêu đung về bệnh tật, dịch vụ y tế và xét nghiệm tại Hoa Kỳ đã thay đổi như thế nào từ năm 1997 đến năm 2016?

🌼Trả lời:
Từ năm 1997 đến năm 2016, tiếp thị y tế đã mở rộng đáng kể và chi tiêu tăng từ 17,7 lên 29,9 tỷ USD, trong đó quảng cáo trực tiếp đến người tiêu dùng về thuốc kê đơn và dịch vụ y tế chiếm tỷ lệ tăng trưởng nhanh nhất và tiếp thị dược phẩm tới các chuyên gia y tế chiếm phần lớn quảng cáo  chi tiêu.

🚩 Điều này có nghĩa là  đã có sự tăng trưởng rõ rệt về chi tiêu và quy mô tiếp thị y tế ở Hoa Kỳ từ năm 1997 đến năm 2016.

🪻Giới thiệu
Chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ cao nhất thế giới, với tổng trị giá 3,3 nghìn tỷ USD—17,8% tổng sản phẩm quốc nội năm 2016. Để nắm bắt thị phần và mở rộng thị trường tiềm năng, các nhà sản xuất thuốc, các công ty sản xuất liên quan xét nghiệm lâm sàng và tại nhà, các tổ chức chăm sóc sức khỏe sử dụng một loạt các hoạt động quảng cáo để bán sản phẩm và dịch vụ của họ.
Những hoạt động này nhằm mục đích định hình nhận thức của công chúng và bác sĩ lâm sàng về lợi ích và tác hại của việc chăm sóc sức khỏe, thuốc kê đơn, xét nghiệm, các bệnh cụ thể và định nghĩa của chúng.
Tiếp thị y tế ảnh hưởng đến hành vi và lựa chọn có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và cũng có thể ảnh hưởng xấu đến nỗ lực kiểm soát chi tiêu chăm sóc sức khỏe không bền vững. Việc tiếp thị dược phẩm liên quan đến sự tương tác phức tạp liên quan đến ngành, tổ chức và cá nhân liên quan đến chăm sóc sức khỏe.
Các nhà sản xuất dược phẩm và thiết bị nhắm mục tiêu vào các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và các tổ chức chăm sóc sức khỏe, và các công ty này, cùng với các công ty sản xuất các sản phẩm lâm sàng và sản phẩm dành cho người tiêu dùng khác, nhắm mục tiêu đến các tổ chức và đối tượng chăm sóc sức khỏe khác nhau để tạo doanh số bán hàng trực tiếp (chẳng hạn như tiếp thị tới người tiêu dùng,  bác sĩ lâm sàng, nhà quản lý nhà thuốc, công ty bảo hiểm và người sử dụng lao động) và gián tiếp (bằng cách tài trợ cho các tổ chức vận động bệnh nhân và những người đứng đầu quan điểm, những người lần lượt tạo ra sự quan tâm đến thuốc, thiết bị, xét nghiệm và các dịch vụ khác).
Những hoạt động này nhằm mục đích hình thành niềm tin của công chúng và bác sĩ lâm sàng về xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, lợi ích và tác hại của thuốc kê đơn cũng như một số định nghĩa về bệnh.
🌼Mục tiêu: Để xem xét việc tiếp thị thuốc kê đơn, các chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật, dịch vụ y tế và xét nghiệm trong phòng thí nghiệm cũng như các hậu quả và quy định liên quan tại Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 20 năm (1997-2016).
🌼Bằng chứng: Phân tích (1997-2016) về quảng cáo của người tiêu dùng (dữ liệu của Kantar Media về mức chi tiêu và số lượng quảng cáo); tiếp thị chuyên nghiệp (Viện Khoa học Dữ liệu Con người IQVIA, Dữ liệu Thanh toán Mở [Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid]); các quy định và hành động pháp lý của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC), tổng chưởng lý tiểu bang và Bộ Tư pháp Hoa Kỳ; và tìm kiếm (1975-2018) tài liệu y khoa được bình duyệt (PubMed), tạp chí kinh doanh (Business Source Ultimate) và phương tiện truyền thông tin tức (Lexis Nexis) để tìm các bài viết về chi tiêu, nội dung, hậu quả và quy định về tiếp thị y tế chuyên nghiệp và người tiêu dùng.
Chi tiêu được báo cáo bằng đô la năm 2016.
🍀Phương pháp
Tiếp thị trực tiếp đến người tiêu dùng ((Direct-To-Consumer DTC) và tiếp thị y tế chuyên nghiệp cho thuốc kê toa, chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật, dịch vụ y tế và xét nghiệm tại Hoa Kỳ từ năm 1997 đến năm 2016 đã được phân tích.
📌Tiếp thị thuốc kê đơn bao gồm DTC và quảng cáo có thương hiệu chuyên nghiệp, thăm khám chi tiết, mẫu thuốc miễn phí, thanh toán trực tiếp cho bác sĩ và bệnh viện (ví dụ: phí diễn giả, thực phẩm, du lịch);
📌tiếp thị nâng cao nhận thức về bệnh tật bao gồm quảng cáo DTC không có thương hiệu và các khoản thanh toán trực tiếp cho bác sĩ và bệnh viện cho việc giáo dục về bệnh tật;
📌tiếp thị dịch vụ y tế bao gồm quảng cáo DTC cho bệnh viện, phòng khám, phòng khám và dịch vụ như chăm sóc sức khỏe tại nhà;
📌Tiếp thị xét nghiệm trong phòng thí nghiệm bao gồm quảng cáo DTC cho các xét nghiệm thương mại và bộ dụng cụ xét nghiệm tại nhà cũng như các khoản thanh toán trực tiếp cho bác sĩ và bệnh viện của các nhà sản xuất phòng thí nghiệm.
📌Xu hướng chi tiêu tiếp thị y tế đã được phân tích với việc điều chỉnh tất cả chi tiêu sang đô la năm 2016.
📌Tổng chi tiêu cho tiếp thị thuốc và dịch vụ y tế tính theo tỷ lệ trong tổng chi tiêu chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ đã được xác định, đồng thời đánh giá hoạt động giám sát theo quy định và hành động pháp lý liên quan đến tiếp thị y tế
📝Kết quả:
📌Từ năm 1997 đến năm 2016, tổng chi tiêu hàng năm cho việc tiếp thị thuốc kê đơn, chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật, dịch vụ y tế và xét nghiệm trong phòng thí nghiệm đã tăng từ 17,7 tỷ USD lên 29,9 tỷ USD.
📌Tiếp thị cho các chuyên gia y tế chiếm tỷ trọng chi tiêu cao nhất, tăng từ 15,6 tỷ USD năm 1997 (88% tổng chi tiêu) lên 20,3 tỷ USD vào năm 2016 (68% tổng chi tiêu), trong đó phần lớn chi tiêu cho tiếp thị thuốc theo toa.
📌Thay đổi nhanh nhất trong chi tiêu là dành cho quảng cáo DTC, tăng từ 2,1 tỷ USD (11,9% tổng chi tiêu) lên 9,6 tỷ USD (32,1% tổng chi tiêu).
📌Đầu tư vào tiếp thị thuốc theo toa tăng chậm hơn so với mức chi tiêu tương ứng của Hoa Kỳ.. Từ năm 1997 đến năm 2016, hoạt động tiếp thị tthuốc kê toa và các chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật đã tăng từ 17,1 tỷ USD lên 26,9 tỷ USD (tăng 60%), trong khi tổng chi tiêu cho thuốc của Hoa Kỳ tăng từ 116,5 tỷ USD lên 328,6 tỷ USD (tăng 180%). Tỷ lệ tiếp thị thuốc trong tổng chi tiêu thuốc của Hoa Kỳ giảm từ 14,7% xuống 8,2%.

Đối với các dịch vụ y tế, chi tiêu cho tiếp thị tăng nhanh hơn tổng chi tiêu tương ứng của Hoa Kỳ. Chi tiêu tiếp thị tăng từ 542 triệu USD lên 2,9 tỷ USD (tăng 430%), trong khi chi tiêu cho các dịch vụ y tế tăng từ 1,2 nghìn tỷ USD lên 2,2 nghìn tỷ USD (tăng 90%). Tiếp thị dịch vụ y tế tính theo tỷ lệ trong tổng chi tiêu dịch vụ y tế của Hoa Kỳ đã tăng từ 0,05% lên 0,13%.

📌Tiếp thị DTC

Quảng cáo thuốc kê toa: Chi tiêu cho quảng cáo DTC đã tăng từ 1,3 tỷ USD năm 1997 lên 6 tỷ USD vào năm 2016. Số lượng quảng cáo (lần xuất hiện, không phải quảng cáo duy nhất) tăng từ 79000 (bao gồm 72000 quảng cáo truyền hình) năm 1997 lên 4,6 triệu (663000 quảng cáo truyền hình) vào năm 2016 Việc tăng chi tiêu song song với việc chuyển sang quảng cáo trên truyền hình tốn kém hơn, vượt quá chi tiêu cho quảng cáo trên báo in vào cuối những năm 1990. Chi tiêu hàng năm tăng vào đầu những năm 2000, sau đó giảm cho đến khoảng năm 2012, rồi lại tăng (Hình 2).


📌Chi tiêu quảng cáo cho thuốc kê đơn tăng ở tất cả các hạng mục điều trị, với 3 trường hợp ngoại lệ. Có sự sụt giảm đáng kể đối với thuốc dị ứng và cholesterol, và mức giảm nhỏ hơn đối với thuốc điều trị loãng xương (Hình 3). Trong mỗi trường hợp đối với 3 loại thuốc này, các chiến dịch quảng cáo lớn hơn vào năm 1997 đã kết thúc khi các sản phẩm bán chạy nhất mất đi sự bảo vệ bằng sáng chế (statin và bisphosphonates) hoặc trở thành thuốc không kê đơn (thuốc kháng histamine) mà không được thay thế bằng các chiến dịch quảng cáo lớn tương đương cho thuốc mới trong danh mục.

📌Mức tăng chi tiêu từ năm 1997 đến năm 2016 là lớn nhất đối với thuốc điều trị bệnh tiểu đường/bệnh nội tiết (từ 22 triệu USD lên 725 triệu USD), bệnh da liễu (67 triệu USD lên 605 triệu USD), đau/rối loạn hệ thần kinh trung ương (56 triệu USD lên 542 triệu USD), viêm khớp ( từ 27 triệu đến 484 triệu USD), bệnh tim mạch (0 đến 379 triệu USD) và ung thư (3 triệu đến 274 triệu USD), phần lớn phản ánh sự cạnh tranh giữa các phương pháp điều trị ung thư và sinh học mới đắt tiền. Hình 3 nêu bật những thay đổi về chi tiêu cho 10 hạng mục điều trị hàng đầu vào năm 1997 và 2016

📌Chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật

 Từ năm 1997 đến năm 2016, số lượng chiến dịch nâng cao nhận thức về DTC—quảng cáo không có thương hiệu nhằm quảng bá một căn bệnh mà không đề cập đến thuốc hoặc chỉ định—đã tăng từ 44 lên 401 và chi tiêu tăng từ 177 triệu USD lên 430 triệu USD (Bảng 1). Các vấn đề hàng đầu được đề cập trong các chiến dịch này là các mối quan tâm về sức khỏe cộng đồng (cai thuốc lá, viêm gan C), chẩn đoán triệu chứng (mất ngủ, đau nửa đầu), rối loạn sức khỏe tâm thần (rối loạn tăng động giảm chú ý, trầm cảm) và các tình trạng thường không được coi là vấn đề y tế (thấp testosterone, bệnh khô mắt). Một thay đổi đáng chú ý trong năm 2016 là việc thúc đẩy các tình trạng chuyên môn cao (ví dụ: suy tụy ngoại tiết, ảnh hưởng đến giả hành).

Quảng cáo ngoài trời, bao gồm bảng quảng cáo, biểu ngữ chuyển tuyến và áp phích chuyển tuyến, đã tăng từ 55 triệu đô la năm 1997 lên 333 triệu đô la vào năm 2016, chiếm 96% tổng số quảng cáo ngoài trời DTC liên quan đến y tế.

🚩Dịch vụ y tế

 Từ năm 1997 đến năm 2016, quảng cáo dịch vụ y tế DTC đã tăng từ 542 triệu USD lên 2,89 tỷ USD (Bảng 2). Số lượng quảng cáo tăng từ 912000 (bao gồm 909000 quảng cáo truyền hình) lên 17,6 triệu (3555000 quảng cáo truyền hình).

 Quảng cáo dịch vụ y tế xuất hiện chủ yếu trên tivi hoặc báo chí (Hình 2). Quảng cáo điện tử tăng kể từ năm 2000 (từ 0 đô la năm 1997 lên 653 triệu đô la năm 2016), vượt quảng cáo trên báo vào năm 2016. Quảng cáo ngoài trời, bao gồm bảng quảng cáo, biểu ngữ chuyển tuyến và áp phích chuyển tuyến, đã tăng từ 55 triệu đô la năm 1997 lên 333 triệu đô la vào năm 2016, đại diện cho 96 % trong tổng số quảng cáo ngoài trời DTC liên quan đến y tế.

 Các bệnh viện và hệ thống chăm sóc sức khỏe chiếm phần lớn quảng cáo dịch vụ y tế DTC, với mức tăng theo tỷ lệ lớn nhất cho các trung tâm ung thư (từ 18 triệu USD lên 200 triệu USD), dịch vụ sức khỏe tâm thần và cai nghiện (từ 2 triệu USD lên 162 triệu USD), phẫu thuật thẩm mỹ (từ 6 triệu USD). đến 93 triệu USD), và chứng đau lưng và cổ (từ 3 triệu USD đến 89 triệu USD). Năm 2016, bệnh viện, dịch vụ y tế và sức khỏe (ví dụ: vật lý trị liệu), nha khoa và trung tâm ung thư chiếm số tiền chi tiêu quảng cáo cao nhất cho các dịch vụ y tế. Quảng cáo hành nghề bác sĩ lâm sàng đã tăng từ 11 triệu đô la năm 1997 lên 61 triệu đô la vào năm 2016.

Quảng cáo cũng tăng đối với 2 dịch vụ thử nghiệm hoặc gây tranh cãi: quảng cáo phòng khám tế bào gốc tăng từ 0,9 triệu USD năm 2012 lên 11,3 triệu USD năm 2016 và dịch vụ sàng lọc di động tăng từ 1,4 triệu USD năm 2004, đạt đỉnh 8,4 triệu USD năm 2012 và giảm xuống 4,1 triệu USD vào năm 2012. 2016.

🚩Chi phí quảng cáo xét nghiệm

Quảng cáo xét nghiệm của DTC thay đổi theo thời gian, từ 75,4 triệu đô la năm 1997, đạt đỉnh 157,8 triệu đô la năm 2004 và giảm xuống còn 82,6 triệu đô la vào năm 2016 (Bảng 3).

Số lượng quảng cáo tăng từ 14100 lên 255300, với tỷ lệ phương tiện truyền thông điện tử tăng từ 0% lên 82%. Năm 1997, chi tiêu quảng cáo của DTC cho xét nghiệm trong phòng thí nghiệm hầu như chỉ dành cho xét nghiệm mang thai/khả năng sinh sản, xét nghiệm HIV và theo dõi đường huyết, trong khi đến năm 2016, 64% chi tiêu quảng cáo của DTC là dành cho xét nghiệm di truyền. AncestryDNA, nhà quảng cáo cao nhất, đã chi 38 triệu đô la vào năm 2016, phần lớn cho quảng cáo quảng bá xét nghiệm DNA phả hệ và dân tộc.

Các xét nghiệm di truyền được quảng cáo khác là về độ tuổi của tế bào, dựa trên độ dài telomere; tác dụng phụ về cơ liên quan đến statin; khuyến nghị về chế độ ăn uống hoặc tập thể dục được cá nhân hóa; và không dung nạp thực phẩm. Năm 2016, các công ty đã chi 3,8 triệu USD cho hầu hết quảng cáo điện tử để thử nghiệm truy cập trực tiếp

🚩Chi phí tiếp thị dành cho bác sĩ

📌Kê toa thuốc

Chi tiêu cho việc trình bày chi tiết sản phẩm cho các chuyên gia (thường là đến gặp trực tiếp văn phòng và bệnh viện của hơn 70000 đại diện bán hàng của công ty dược phẩm), tương tự vào năm 1997 và 2016: khoảng 5 tỷ USD (Hình 4) với lợi tức đầu tư ước tính, dựa trên theo phân tích năm 2001, tổng thể là 2 trên 1 và 10 trên 1 đối với thuốc có nhãn hiệu mới.

Chi tiêu cho các mẫu thuốc miễn phí, do đại diện bán hàng phân phối (bao gồm cả yêu cầu trực tuyến), đã tăng từ 8,9 tỷ USD năm 1997 lên 13,5 tỷ USD vào năm 2016. Tạp chí y khoa quảng cáo đã giảm từ 744 triệu USD năm 1997 xuống còn 119 triệu USD vào năm 2016.  2016, các công ty đã trả cho các bác sĩ và bệnh viện giảng dạy 978,96 triệu USD cho các hoạt động phi nghiên cứu (Bảng 4), bao gồm 381,13 triệu USD để làm giảng viên hoặc diễn giả trình bày các tài liệu do công ty phát triển trong các buổi nói chuyện vào bữa trưa hoặc bữa tối . Các khoản thanh toán khác dành cho tư vấn ($210,05), thực phẩm và đồ uống ($164,21 triệu), chi phí đi lại và chỗ ở ($96,9 triệu) và thù lao danh dự (14,64 triệu).

📌Chi phí Tiếp thị nhận thức về bệnh tật

 Năm 2016, các công ty dược phẩm đã trả cho các bác sĩ và bệnh viện giảng dạy 58,95 triệu USD để giáo dục diễn thuyết nâng cao nhận thức về bệnh tật, bao gồm phí diễn giả tại các sự kiện của công ty (51,18 triệu USD), thù lao danh dự (2,04 triệu USD) và giáo dục (4,13 triệu USD) không liên quan đến các sản phẩm cụ thể (Bảng 4). Một số nhà sản xuất thừa nhận rằng họ tài trợ cho “các bài thuyết trình thông tin không có thương hiệu để nâng cao nhận thức về tình trạng bệnh tật cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe”.3 Hầu như tất cả phí phát biểu đều dành cho các sự kiện của công ty (97%) thay vì giáo dục y tế thường xuyên được công nhận

📌Chi phí tiếp thị các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm

Các nhà sản xuất các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm được FDA phê chuẩn đã thanh toán 12,9 triệu USD phi nghiên cứu cho các bác sĩ và bệnh viện giảng dạy trong năm 2016 (Bảng 4), bao gồm phí diễn giả cho chương trình giáo dục do công ty tài trợ (2,04 triệu USD), thực phẩm và đồ uống (2,54 triệu USD) và tư vấn (4,06 USD) triệu).

📌Quy định

Các hoạt động quản lý chính được tóm tắt trong Bảng 5 và quy trình quản lý đối với từng loại hình tiếp thị được trình bày trong hình 1.

📌Từ năm 1997 đến năm 2016, số lượng tài liệu quảng cáo thuốc chuyên nghiệp và tiêu dùng mà các công ty gửi để FDA xem xét đã tăng từ 34.182 lên 97.252, trong khi các thư vi phạm của FDA về thuốc gây nhầm lẫn  hoạt động tiếp thị giảm từ 156 xuống còn 11.
📌Kể từ năm 1997, 103 cuộc dàn xếp tài chính giữa các công ty dược phẩm với chính phủ liên bang và tiểu bang đã dẫn đến hơn 11 tỷ USD tiền phạt đối với các hành vi tiếp thị ngoài nhãn mác hoặc lừa đảo.
📌FTC đã hành động chống lại hoạt động tiếp thị sai lệch của một trung tâm ung thư vì lợi nhuận.

🍀Bàn luận

🚩Từ năm 1997 đến năm 2016, chi tiêu cho tiếp thị y tế đã tăng đáng kể từ 17,7 tỷ USD lên 29,9 tỷ USD. Mặc dù chi tiêu cho quảng cáo DTC cho thuốc theo toa và dịch vụ y tế tăng nhanh nhất, nhưng chi tiêu cho tiếp thị dược phẩm cho các chuyên gia luôn chiếm phần lớn chi tiêu quảng cáo, bất chấp những nỗ lực hạn chế sự vướng mắc của ngành. Mặc dù hoạt động tiếp thị đã mở rộng hơn 20 năm nhưng việc giám sát theo quy định vẫn còn tương đối hạn chế.

🚩Tiếp thị y tế ngày càng tăng phản ánh sự hội tụ của các lực lượng khoa học, kinh tế, pháp lý và xã hội. Khi ngày càng có nhiều loại thuốc, thiết bị và tiến bộ y tế chuyển những căn bệnh từng gây tử vong thành bệnh mãn tính và với mối quan tâm mới về việc phòng ngừa một số bệnh, việc tiếp thị các xét nghiệm, phương pháp điều trị và dịch vụ đã mở rộng.

Dân số già đi được bảo hiểm nhiều hơn, Ngày càng có nhiều bác sĩ lâm sàng, trung tâm chăm sóc sức khỏe, sự tăng trưởng của khu vực vì lợi nhuận và sự hợp nhất thị trường đã làm tăng tính cạnh tranh, kích thích tăng trưởng tiếp thị.

🚩Chi phí Tiếp thị DTC

Kê toa: Quảng cáo thuốc theo toa DTC, bắt đầu từ đầu những năm 1980, chỉ được phép ở Hoa Kỳ và New Zealand. FDA yêu cầu các quảng cáo DTC đưa ra tuyên bố về sản phẩm phải bao gồm bản tóm tắt ngắn gọn về các tác dụng phụ nghiêm trọng và phổ biến, hạn chế sự phổ biến của các quảng cáo phát sóng bởi vì thời gian phát sóng cần thiết đã làm tăng thêm chi phí đáng kể.

Hướng dẫn tiếp theo của FDA (1997) cho phép thay thế các tuyên bố ngắn gọn đề cập đến những rủi ro quan trọng và giới thiệu người tiêu dùng đến các nguồn khác để có thông tin đầy đủ. Sự thay đổi quy định này đã khơi dậy kỷ nguyên hiện đại của quảng cáo DTC

📌Đặc điểm tiếp thị

Quảng cáo của các công ty dược phẩm ngày càng đưa ra các phiếu giảm giá, giảm giá để bù đắp chi phí tự chi trả, đặc biệt đối với các loại thuốc đắt tiền và thuốc có sự cạnh tranh chung.

Những chiến lược này đã bị chỉ trích vì khuyến khích sử dụng các loại thuốc đắt tiền mặc dù có các lựa chọn có chi phí thấp hơn, làm suy yếu thiết kế bảo hiểm , giảm áp lực cạnh tranh để giảm giá và cuối cùng chuyển chi phí cao hơn về phía người trả tiền.

Các nghiên cứu gần đây về quảng cáo phát sóng DTC cho rằng chất lượng thông tin thấp, với lợi ích về thuốc thường được trình bày dưới dạng lời chứng thực thay vì định lượng (tức là chỉ 9% trong số các quảng cáo này có rủi ro tuyệt đối giảm) và tác dụng phụ trong danh sách dài, thường được giảm thiểu bằng cách cạnh tranh hình ảnh tích cực và không bao giờ được định lượng

Rất ít quảng cáo (7%) bao gồm các lựa chọn không dùng thuốc. Không có bằng chứng nào cho thấy quảng cáo DTC cải thiện sự tuân thủ của bệnh nhân.

🚩Ảnh hưởng của tiếp thị

Quảng cáo DTC có liên quan đến việc tăng yêu cầu và đơn thuốc của bệnh nhân (mặc dù có các lựa chọn thay thế hiệu quả về mặt chi phí) và chi phí cao hơn do có nhiều lượt khám bệnh hơn. Trong một thử nghiệm năm 2005, các bệnh nhân đã được tiêu chuẩn hóa tại các lần thăm khám chăm sóc ban đầu (n = 298 lượt khám với 152 bác sĩ) được chọn ngẫu nhiên để đưa ra yêu cầu theo hướng DTC về thuốc chống trầm cảm có thương hiệu (“Tôi đã thấy quảng cáo này về Paxil”) hoặc không có yêu cầu nào. ⚠️Nhóm trước nhận được nhiều đơn thuốc hơn dù có chỉ định hay không, dẫn đến ít sử dụng dưới mức hơn (nhiều thuốc chống trầm cảm hơn cho bệnh trầm cảm nặng, 53% so với 31%) và lạm dụng nhiều hơn (nhiều hơn đối với rối loạn điều chỉnh, 55% so với 10%).

Cân nhắc về quy định

 Năm 2006, sau chiến dịch DTC của Vioxx và việc rút thuốc ra thị trường, Viện Y Khoa Hoa Kỳ đã đề xuất 2 chính sách:

⚠️thêm tam giác đen vào quảng cáo để làm nổi bật sự không chắc chắn vốn có của thuốc mới

⚠️và lệnh cấm quảng cáo DTC trong vài năm đầu tiên có mặt trên thị trường.

Tuy nhiên, FDA đã không áp dụng chính sách nào cả. Bất chấp những điều không chắc chắn quan trọng về hiệu quả và độ an toàn của một số sản phẩm mới, quảng cáo DTC vẫn được phép đối với các loại thuốc được cấp phép nhanh chóng. FDA yêu cầu ghi nhãn  phải lưu ý rằng việc phê duyệt chỉ là tạm thời, dựa trên kết quả thay thế được cải thiện (ví dụ: phản ứng của khối u) chứ không phải kết quả của bệnh nhân (ví dụ: khả năng sống sót). FDA không yêu cầu các tuyên bố tương tự trong quảng cáo DTC, nhưng nên xem xét thực hiện.

Vào năm 2015, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA) đã kêu gọi cấm quảng cáo DTC vì lo ngại rằng quảng cáo DTC làm tăng chi phí thuốc mà không mang lại lợi ích gì. Các công ty phản đối trên cơ sở Tu chính án thứ nhất và lệnh cấm khó có thể xảy ra.

Để cung cấp thông tin tốt hơn cho người tiêu dùng, Ủy ban Tư vấn Truyền thông Rủi ro của FDA khuyến nghị bổ sung các bảng (hộp thông tin về thuốc) để định lượng lợi ích và tác dụng phụ trong quảng cáo. Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được FDA nhân rộng đã chỉ ra rằng các hộp thông tin về thuốc cải thiện các lựa chọn thuốc giả định, mặc dù những điều này chưa được triển khai trong các quảng cáo thuốc.

Năm 2018, FDA đã ban hành hướng dẫn khuyến nghị cách các công ty nên định lượng thông tin lợi ích và rủi ro nhưng không bắt buộc phải đưa thông tin này vào tài liệu quảng cáo

Ngoài ra, mặc dù quảng cáo thuốc chiếm tỷ lệ tăng trưởng lớn nhất trong hoạt động tiếp thị DTC, nhưng số lượng thư vi phạm của FDA giảm tương ứng cho thấy khả năng giám sát ít hơn. Các công ty có thể đang sản xuất những vật liệu tốt hơn nhưng cũng có thể những người đánh giá của FDA có thể bị choáng ngợp trước số lượng gửi quảng cáo tăng mạnh (Hình 5).

🚩Chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật

Các công ty có thể tiến hành các chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật ở bất cứ đâu trên thế giới, ngay cả trước khi thuốc được phê duyệt tương ứng.

Vì các chiến dịch không nêu tên hoặc đưa ra tuyên bố về các sản phẩm cụ thể nên các chiến dịch này được miễn các yêu cầu về cân bằng công bằng trong quảng cáo có thương hiệu của FDA (tức là nhấn mạnh như nhau về lợi ích và rủi ro).

Nâng cao nhận thức có thể có lợi nếu nó làm tăng khả năng chẩn đoán và điều trị hiệu quả các bệnh nghiêm trọng hoặc gây suy nhược, hoặc làm giảm kỳ thị các bệnh (ví dụ như HIV) hoặc các triệu chứng đáng xấu hổ (ví dụ như bất lực). Nhưng việc nâng cao nhận thức về bệnh tật cũng có thể gây ra tác hại (chẳng hạn như những tác hại liên quan đến chẩn đoán quá mức, điều trị quá mức và lãng phí nguồn lực) bằng cách y tế hóa kinh nghiệm thông thường và mở rộng các định nghĩa về bệnh mà không có bằng chứng về lợi ích ròng.

🚩Đặc điểm tiếp thị

Các chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật đã sử dụng một số cách tiếp cận để thúc đẩy tình trạng bệnh: các từ viết tắt định kiến ​​đáng nhớ (ví dụ: ED cho chứng rối loạn cương dương), các câu đố để xác định bệnh và cho phép tự chẩn đoán, và khuyến khích “hãy hỏi bác sĩ của bạn” (thường bao gồm các câu hỏi kịch bản) về các triệu chứng , bệnh tật và điều trị.

Các báo cáo của ngành đã xác định các chiến dịch nâng cao nhận thức là các chủ đề truyền thông xã hội đặc biệt hấp dẫn và phát hiện ra rằng các trang Facebook không có thương hiệu phổ biến hơn các trang có thương hiệu (44 so với 24 trang) và phổ biến hơn (ví dụ: trang không có thương hiệu phổ biến nhất, Takeda’s Lighter Blue [trầm cảm] có 1,1 triệu lượt xem so với 295,000 cho trang có thương hiệu phổ biến nhất, Gilenya.com của Novartis [bệnh đa xơ cứng].

Các công ty cũng hỗ trợ các tổ chức vận động bệnh nhân định hình quan niệm về bệnh tật: 83% trong số 104 tổ chức vận động bệnh nhân lớn nhất Hoa Kỳ đã nhận được tài trợ từ các công ty dược phẩm, thiết bị hoặc công nghệ sinh học và 14 công ty dược phẩm đã quyên góp ít nhất 116 triệu USD cho 594 nhóm bệnh nhân trong năm 2015.

Các công ty đã làm việc với các nhà biên kịch truyền hình để tạo ra những câu chuyện liên quan đến bệnh tật (không tiết lộ sự hợp tác)

🚩Ảnh hưởng của tiếp thị

Một thử nghiệm năm 2005 của Kravitz và cộng sự cung cấp bằng chứng mạnh mẽ nhất về tác động của các chiến dịch bệnh tật đối với việc kê đơn.

Những bệnh nhân tiêu chuẩn nói với bác sĩ “Tôi đang xem chương trình truyền hình này về bệnh trầm cảm và tự hỏi liệu bạn có nghĩ rằng một loại thuốc có thể giúp ích cho tôi hay không,” so với những người không đưa ra yêu cầu, nhận được nhiều đơn thuốc chống trầm cảm hơn (76% so với 31%) và rối loạn điều chỉnh (39% so với 10%).

Một nghiên cứu sinh thái quốc gia đã chứng minh mối liên quan giữa việc tiếp xúc với quảng cáo DTC trong khu vực về “thấp testosterone ở tuổi lão hóa”, việc sử dụng ngoài nhãn hiệu và việc tăng đơn thuốc testosterone. Trong suốt chiến dịch này, doanh số bán testosterone đã tăng từ 1,01 triệu USD (2009) và đạt đỉnh 2,7 tỷ USD (2013). Trên danh nghĩa, các hiệp hội mạnh mẽ hơn đối với quảng cáo không có thương hiệu so với quảng cáo có thương hiệu. FDA đã không phản đối các tuyên bố ngoài nhãn hiệu.

Nghiên cứu của FDA đã ghi nhận một vấn đề khác là nỗ lực nâng cao nhận thức về bệnh tật có thể khiến mọi người nhầm lẫn thông tin về bệnh với lợi ích của thuốc. So với những người chỉ tiếp xúc với thông tin về thuốc, những người cũng được tiếp xúc với thông tin về bệnh tật có nhiều khả năng tin tưởng sai lầm rằng thuốc có những lợi ích chưa được chứng minh.

🚩Các dịch vụ y tế

Quảng cáo dịch vụ y tế, tương đối hiếm gặp cách đây 20 năm, giờ đây đã phổ biến. AMA khuyến nghị cấm quảng cáo bác sĩ cho đến những năm 1980, khi các tòa án liên bang ra phán quyết rằng làm như vậy vi phạm ngôn luận thương mại được bảo vệ, ức chế cạnh tranh và ngăn cản bác sĩ cung cấp cho công chúng thông tin quan trọng về các dịch vụ, chất lượng và giá cả hiện có.55 Những phán quyết này cũng dẫn đến việc Hiệp hội Bệnh viện Hoa Kỳ hủy bỏ lệnh cấm quảng cáo.

📌Đặc điểm tiếp thị

Tiếp thị bệnh viện thường nhấn mạnh đến sự thuận tiện, tiện nghi hoặc danh tiếng nhưng hiếm khi cung cấp dữ liệu so sánh về chất lượng. Trong một nghiên cứu cũ chưa được cập nhật, danh sách vinh danh các trung tâm y tế hàn lâm năm 2005 của US News & World Report đã đề cao uy tín của tổ chức, các cuộc xét nghiệm và các biện pháp can thiệp (nhiều điều chưa được chứng minh) bằng cách sử dụng những lời kêu gọi mang tính cảm xúc hơn là dữ liệu.

Gần đây hơn, một số quảng cáo cho các trung tâm ung thư đã nhấn mạnh đến hy vọng và nỗi sợ hãi mà không đề cập đến tác hại của việc điều trị hoặc lượng hóa lợi ích; một số quảng cáo đã sử dụng lời chứng thực của những người sống sót, ngụ ý sai rằng bệnh nhân sống lâu hơn hoặc có kết quả tốt hơn khi được điều trị tại các trung tâm đó.

Các trang web của bệnh viện đã quảng cáo nổi bật các công nghệ mới bao gồm phẫu thuật bức xạ định vị, phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt bằng robot, hoặc phẫu thuật phụ khoa bằng robot, thường đưa ra những tuyên bố về lợi ích không có căn cứ mà không lưu ý đến các rủi ro hoặc lựa chọn thay thế, và, trong trường hợp bức xạ định vị, sử dụng trong các bệnh ung thư ngoài các hướng dẫn chuyên môn.

Một số trung tâm y tế có thể quảng cáo công nghệ mới tiên tiến để thu hút bệnh nhân mới, nhưng nhu cầu thu hồi vốn đầu tư vào công nghệ có thể kích thích quảng cáo, tạo ra một chu kỳ tự củng cố. Nhiều bệnh viện (bao gồm một số trung tâm học thuật) tiếp thị “khám sức khỏe cao cấp”, khám trong 1 đến 2 ngày bao gồm khảo sát  hình ảnh nâng cao chưa được chứng minh (ví dụ: chụp cắt lớp vi tính toàn thân) trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc gián tiếp thông qua người sử dụng lao động như một lợi ích quản lý điều hành.

Ảnh hưởng của quảng cáo dịch vụ y tế tới người tiêu dùng phần lớn vẫn chưa được biết rõ. Mặc dù quảng cáo này có thể mang lại những lựa chọn tốt hơn nhưng nó có thể dẫn đến chi phí cao hơn và lạm dụng công nghệ mới hoặc chưa được chứng minh.

🚩Các xét nghiệm

Mặc dù trước đây tập trung vào bệnh viện và bác sĩ, nhưng việc tiếp thị xét nghiệm trong phòng thí nghiệm hiện nhắm đến người tiêu dùng. Doanh thu của các sản phẩm này đã tăng đáng kể từ 15 triệu USD năm 2010 lên 131 triệu USD năm 2015, dự kiến ​​đạt 350 triệu USD vào năm 2020 và được thúc đẩy một phần bởi đầu tư vốn mạo hiểm đáng kể (ví dụ: 23andMe được báo cáo đã huy động được hơn 400 triệu USD)

📌Đặc điểm tiếp thị

Các công ty xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thương mại truyền thống (ví dụ: Quest) tiếp thị xét nghiệm truy cập trực tiếp, theo đó người tiêu dùng đặt hàng trực tuyến các xét nghiệm hoặc bảng xét nghiệm máu truyền thống (ví dụ: khám sức khỏe, dấu hiệu ung thư, kiểm tra hormone). Mặc dù xét nghiệm truy cập trực tiếp mang lại sự tiện lợi, với các mẫu trong phòng thí nghiệm được lấy tại cơ sở gần nhất mà không có sự tham gia của bác sĩ thì tính phù hợp của xét nghiệm này vẫn còn nhiều nghi vấn.

Một nghiên cứu năm 2011 trên 92 xét nghiệm được bán trên thị trường liên quan đến sàng lọc cho thấy rằng rất ít xét nghiệm được khuyến nghị theo hướng dẫn dựa trên bằng chứng (12% ở nhóm đối tượng mục tiêu; không có xét nghiệm nào trong dân số nói chung) và hướng dẫn đó khuyến nghị không xét nghiệm đối với gần một phần tư số xét nghiệm được nghiên cứu.

Một số công ty tiếp thị hoặc cho phép người tiêu dùng mua các xét nghiệm di truyền theo yêu cầu của bác sĩ để tìm gen ung thư, sàng lọc trẻ sơ sinh và dược động học. Ví dụ: Color Genomics cho phép người tiêu dùng mua bộ dụng cụ nước bọt tại nhà để tìm 30 gen ung thư di truyền và chứng tăng cholesterol máu trong gia đình, đồng thời gửi đơn đặt hàng của bác sĩ khi thanh toán hoặc ủy quyền cho một bác sĩ độc lập yêu cầu xét nghiệm. Một số người tiêu dùng tại Color Genomics và các công ty khác có thể không bao giờ liên hệ hoặc gặp bác sĩ đặt hàng trước hoặc sau khi xét nghiệm.

 Xét nghiệm di truyền DTC quen thuộc nhất liên quan đến việc người tiêu dùng mua bộ dụng cụ để xác định tổ tiên, quan hệ cha con, các đặc điểm (ví dụ: không có lông mày), sức khỏe (ví dụ: giấc ngủ). ), tình trạng mang mầm bệnh (ví dụ: bệnh xơ nang) và dự đoán rủi ro bệnh tật (ví dụ: bệnh Alzheimer) từ công ty, Amazon hoặc các nhà bán lẻ như hiệu thuốc và cửa hàng bách hóa lớn. Một số xét nghiệm được tiếp thị như một hoạt động vui nhộn (ví dụ: tiệc nhổ nước bọt), một món quà chu đáo (ví dụ: Giáng sinh và ngày lễ tình nhân) hoặc mang tính mạo hiểm (LivingDNA—Bắt đầu cuộc phiêu lưu của tổ tiên bạn ngay hôm nay). Tuy nhiên, các trang web xét nghiệm di truyền hiếm khi cung cấp thông tin về những hậu quả bất lợi tiềm ẩn của xét nghiệm (ví dụ: phân biệt đối xử về mặt di truyền, hậu quả về mặt cảm xúc), những hạn chế (ví dụ: di truyền chỉ là một thành phần rủi ro) hoặc đưa ra tư vấn trước khi xét nghiệm. Một số trang web, chẳng hạn như những trang web cung cấp các xét nghiệm chưa được FDA xem xét, đã hành động sai trái bằng cách trích dẫn chứng nhận chất lượng của phòng thí nghiệm để suy ra rằng các xét nghiệm đã được FDA chấp thuận.

📌Ảnh hưởng của tiếp thị

Myriad đã tiến hành chiến dịch quy mô lớn đầu tiên để xét nghiệm BRCA theo yêu cầu của bác sĩ vào năm 2002. Chiến dịch này bị chỉ trích vì phóng đại lợi ích của xét nghiệm đối với dân chúng nói chung, đã tăng số lượt giới thiệu tư vấn di truyền tại Kaiser Permanente Colorado từ 144 bệnh nhân lên 499 bệnh nhân so với không tăng ở mức 499 bệnh nhân. một bệnh viện đối chứng.69 Trong khi nhiều phụ nữ có nguy cơ thấp được giới thiệu để tư vấn hơn (từ 31% đến 52%), số lượng phụ nữ có nguy cơ thấp được xét nghiệm không thay đổi. Nghiên cứu hiện có còn hạn chế cho thấy rằng xét nghiệm gây ra tổn hại tâm lý tối thiểu cho các cá nhân với các biến thể có nguy cơ cao hơn,và nó không tạo ra nhiều động lực để thay đổi hành vi.

Trong một nghiên cứu (N = 1026), chỉ có 27% người tiêu dùng thực sự chia sẻ kết quả xét nghiệm bộ gen cá nhân với bác sĩ của họ 6 tháng sau đó. Nói chung, làm như vậy là không hài lòng và nhiều bệnh nhân đặt câu hỏi về năng lực diễn giải kết quả của bác sĩ. Một thử nghiệm ngẫu nhiên thí điểm trên 100 bệnh nhân cho thấy việc bổ sung sàng lọc toàn bộ bộ gen vào đánh giá tiền sử gia đình ở cơ sở chăm sóc ban đầu đã phát hiện những bất thường có giá trị không chắc chắn; mặc dù hầu hết các đột biến đã được quản lý một cách thích hợp, một số (18%) đã dẫn đến các hành động lâm sàng không phù hợp.

📌Các uy định
Theo Văn phòng Gen Y tế Công cộng của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), “xét nghiệm di truyền của người tiêu dùng đang bùng nổ” với số lượng ước tính hơn 12 triệu người vào năm 2017 trải qua các xét nghiệm sức khỏe di truyền, thường đi kèm với xét nghiệm phả hệ.

CDC lo ngại rằng nhiều xét nghiệm được thực hiện mà không có sự tư vấn về di truyền và phần lớn chưa xác định được sự cân bằng giữa lợi ích và tác hại. Quy định kiểm tra di truyền đang thay đổi.

Trong lịch sử, FDA coi các xét nghiệm này là các xét nghiệm đơn giản do phòng thí nghiệm phát triển (LDT): các xét nghiệm một lần được phát triển bởi các phòng thí nghiệm riêng lẻ để đáp ứng nhu cầu địa phương, với giá trị thương mại hạn chế và không cần xem xét trước khi đưa ra thị trường. Nhưng theo thời gian, các xét nghiệm di truyền đã trở nên phổ biến hơn. phức tạp về mặt công nghệ, có giá trị thương mại và được tiếp thị rộng rãi, dẫn đến lời kêu gọi tăng cường cảnh giác và xem xét trước khi tiếp thị.

FDA ngày càng hành động chống lại việc quảng cáo DTC đối với các LDT di truyền không được phê duyệt, đáng chú ý nhất là yêu cầu xem xét trước khi đưa ra thị trường trước khi cấp cho 23andMe giấy phép đầu tiên để tiếp thị DTC các xét nghiệm rủi ro sức khỏe di truyền. Tuy nhiên, việc thiết lập độ chính xác và khả năng dự đoán, phê duyệt không giải quyết được tiện ích lâm sàng (tức là cải thiện kết quả). Theo sự chấp thuận của 23andMe, công ty phải đưa ra các cảnh báo và hạn chế (ví dụ: “xét nghiệm không có nghĩa là cuối cùng bạn sẽ phát bệnh”) và lưu ý các khuyến nghị hướng dẫn chuyên môn ngay cả khi các hướng dẫn không hỗ trợ xét nghiệm.

vào năm 2018, FDA đã phê duyệt thử nghiệm dược động học DTC đầu tiên. Xét nghiệm này cung cấp thông tin về các biến thể di truyền có thể liên quan đến cách thuốc được chuyển hóa “để giúp cung cấp thông tin cho các cuộc thảo luận với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.” Tuy nhiên, tiêu chuẩn để phê duyệt có vấn đề và chỉ dựa trên khả năng tái tạo xét nghiệm chứ không phải bằng chứng về tính hữu ích trên lâm sàng . FDA đã cảnh báo rằng xét nghiệm này không dự đoán được phản ứng với bất kỳ loại thuốc nào và không nên được sử dụng để đưa ra quyết định điều trị. Một ngày sau khi phê duyệt, FDA đã đưa ra cảnh báo an toàn thông báo rằng nhiều xét nghiệm dược động học (DTC hoặc bác sĩ lâm sàng yêu cầu) tuyên bố dự đoán phản ứng với các loại thuốc cụ thể chưa được FDA đánh giá hoặc thiếu bằng chứng hỗ trợ.82 FDA không nên phê duyệt hoặc cho phép quảng cáo của các thử nghiệm như vậy mà không cần xem xét trước khi đưa ra thị trường để thiết lập lợi ích lâm sàng có ý nghĩa

🚩Tiếp thị dành cho BS

Kê toa

Các công ty đã liên tục chi nhiều hơn cho việc quảng cáo các mẫu miễn phí và cung cấp các chuyến thăm khám chi tiết hơn các hình thức tiếp thị y tế khác.

Các khoản thanh toán trực tiếp cho bác sĩ cũng rất đáng kể đối với phí diễn giả và các sự kiện giáo dục được tài trợ, hầu hết là do công ty tài trợ, thay vì các chương trìng đào tạo y khoa liên tục (CME) được công nhận cấm  đánh giá nội dung.

Đặc điểm tiếp thị

Những loại thuốc được bác sĩ quảng bá rầm rộ nhất là những phương pháp điều trị hàng đầu ít được khuyến nghị trong hướng dẫn quốc gia so với những loại thuốc được kê đơn nhiều nhất hoặc bán chạy nhất, sự thật thường không hiển nhiên trong các quảng cáo trên tạp chí y khoa.

Một nghiên cứu năm 2008 về quảng cáo trên 9 tạp chí có tác động cao (N = 83 quảng cáo duy nhất) cho thấy 58% (48) không định lượng được rủi ro nghiêm trọng, 48% (40) thiếu tài liệu tham khảo có thể kiểm chứng và 29% (24) không định lượng được hiệu quả .

Những người đưa ra ý kiến ​​chủ chốt nổi bật trong lĩnh vực tiếp thị với tư cách là nhà tư vấn và diễn giả trong suốt vòng đời của thuốc, phát triển các chiến lược thương mại hóa và đóng vai trò là nhà vô địch về sản phẩm. Những người dẫn đầu ý kiến ​​này gây ảnh hưởng thông qua các ấn phẩm nghiên cứu, bài thuyết trình, sự hiện diện trên phương tiện truyền thông và đóng góp cho ban biên tập, ủy ban hướng dẫn và các hiệp hội nghề nghiệp.

Các khoản thanh toán cho những người có quan điểm chính, một chức năng của danh tiếng và chuyên môn, được cho là chiếm khoảng một phần ba ngân sách tiếp thị của công ty.

Xúc tiến gián tiếp khác trong ngành có thể có ảnh hưởng nhưng khó định lượng, chẳng hạn như tiếp thị hoặc thử nghiệm “gieo mầm” trong đó chức năng chính không phải là nghiên cứu mà là khuyến khích bác sĩ bắt đầu sử dụng một loại thuốc cụ thể.

Ảnh hưởng của tiếp thị

Các nghiên cứu quan sát cho thấy rằng chi tiết và mẫu ảnh hưởng đến việc kê đơn và tăng chi phí bằng cách quảng cáo các loại thuốc chính hiệu mới đắt tiền hơn là các sản phẩm thay thế có hiệu quả tương đương, ít tốn kém hơn hoặc các lựa chọn không dùng thuốc. Các quà tặng như du lịch, chỗ ở và bữa ăn cũng có vẻ kích thích bác sĩ kê toa thuốc khuyến mại; ngay cả những món quà nhỏ cũng thúc đẩy việc kê đơn nhiều hơn, mặc dù những món quà lớn hơn có liên quan đến tác động lớn hơn.

Bởi vì những người kê đơn cao có thể có xu hướng nhận quà hoặc hàng mẫu hoặc tham gia vào các chuyến thăm chi tiết, những nghiên cứu này không thể chứng minh được mối quan hệ nhân quả.

Các quy định

Ít tiếp xúc với chi tiết hơn trong thời gian học y, nội trú hoặc hành nghề có liên quan đến việc ít sử dụng các loại thuốc mới đắt tiền hơn và tỷ lệ sử dụng thuốc gốc cao hơn.

Các chính sách hạn chế hoặc cấm quà tặng của tiểu bang có liên quan đến việc ít kê đơn các loại thuốc mới đắt tiền hơn, và các hệ thống chăm sóc sức khỏe như vì Kaiser Permanente và một số trung tâm y tế học thuật hiện cấm hoặc giới hạn phí diễn giả, tư vấn phi nghiên cứu và bữa ăn.

Vào năm 2018, New Jersey đã áp dụng các hạn chế về quà tặng đầu tiên liên quan đến giấy phép, giới hạn các khoản thanh toán tư vấn và diễn thuyết hàng năm ở mức  không quá 10.000 USD và bữa ăn ở mức dưới 15.102 USD -bằng chứng chất lượng hỗ trợ các chương trình phản bác chi tiết trong học thuật cũng như cải thiện việc kê đơn. Cần có sự giám sát chi tiết và giáo dục tốt hơn. OPDP giám sát các cuộc triển lãm và hoạt động quảng cáo tại các cuộc họp và hội nghị y tế lớn nhưng không nêu chi tiết các chuyến thăm, thuyết trình về bữa trưa hoặc bữa tối hoặc đào tạo diễn giả. Kinh nghiệm sử dụng Oxycontin nêu bật những tác hại tiềm ẩn của chi tiết; đại diện thuốc, giảm thiểu khả năng lạm dụng và thúc đẩy việc sử dụng ngoài nhãn hiệu để giảm đau mãn tính, đã góp phần gây ra cuộc khủng hoảng opioid hiện nay,104 mặc dù chi tiết về Oxycontin đã ngừng vào năm 2018.

Nếu OPDP không thể giám sát các hoạt động quảng cáo đối với các loại thuốc có nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng, thì có thể cần phải có lệnh cấm chi tiết được cân nhắc.

🚩Chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh tật

Các công ty thường trả tiền cho bác sĩ để nói chuyện hoặc tìm hiểu về chẩn đoán hoặc điều trị bệnh. Cuộc khủng hoảng opioid làm nổi bật những rủi ro tiềm ẩn của việc lôi kéo ngành công nghiệp vào việc giáo dục về bệnh tật. Nhận thức về bệnh do công ty tài trợ đã thúc đẩy một cách tiếp cận tích cực để điều trị cơn đau mãn tính bao gồm ngưỡng sử dụng opioid thấp hơn đối với cơn đau không do ung thư.

Năm 1996, không có bằng chứng hỗ trợ, Học viện Thuốc giảm đau Hoa Kỳ và Hiệp hội Đau Hoa Kỳ, cả hai đều được tài trợ đáng kể bởi các nhà sản xuất thuốc phiện, đã đưa ra một tuyên bố đồng thuận ủng hộ thuốc phiện đối với chứng đau mãn tính không do ung thư, mô tả nguy cơ nghiện là thấp. Hiệp hội Đau Hoa Kỳ cũng đưa ra đau là dấu hiệu sinh tồn thứ năm, được Bộ Cựu chiến binh thông qua và JCAHO xác nhận, khuyến khích các bác sĩ lâm sàng sàng lọc tất cả các bệnh nhân về cơn đau cùng với việc đo các dấu hiệu sinh tồn truyền thống.

Từ năm 1996 đến năm 2001, Purdue Pharma (nhà sản xuất Oxycontin) ) đã trả tiền cho hơn 5000 bác sĩ, dược sĩ và ĐD để tham dự các hội nghị đào tạo diễn giả và tài trợ cho hơn 20000 chương trình đào tạo về quản lya đau.Doanh số bán thuốc theo toa opioid và số ca tử vong đã tăng gấp bốn lần từ năm 2000 đến năm 2015.

Ngay cả các CT ĐTLT có CME  cũng có thể gây ra chẩn đoán và điều trị không phù hợp. Ví dụ: chương trình CME được Medscape công nhận, “Vạch trần ADHD ở người lớn,” do Shire (nhà sản xuất Adderall tài trợ), đã hướng dẫn cho các bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu rằng việc chẩn đoán có thể được thực hiện trong 6 phút. Sau khi đặt câu hỏi, bác sĩ tâm thần đã tạo ra chương trình này xem xét lại và bác bỏ yêu cầu bồi thường.

Việc thúc đẩy nhận thức bệnh tật cũng xảy ra thông qua các chuyên gia tư vấn của bác sĩ trong ban cố vấn thiết kế các chiến dịch nâng cao nhận thức, phát triển các chương trình quản lý bệnh hoặc tham gia vào các hội thảo do công ty tài trợ xác định tiêu chuẩn chẩn đoán và ngưỡng điều trị (ví dụ: Nhóm Nghiên cứu Hội chứng Chân không yên Quốc tế, Hội thảo khô mắt mãn tính).

Để giải quyết sự thiên vị có thể xảy ra trong y khoa, Học viện Y khoa Quốc gia và Mạng lưới Hướng dẫn Quốc tế đã phát triển các tiêu chí chất lượng nhấn mạnh rằng các hội đồng thiết lập định nghĩa phải bao gồm các chuyên gia không có xung đột lợi ích tài chính.

Tiếp thị các xét nghiệm

Các nhà sản xuất xét nghiệm được FDA chấp thuận phải báo cáo các khoản thanh toán của bác sĩ cho Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid; tuy nhiên, các nhà sản xuất LDT được miễn. Những khoản thanh toán này có thể rất lớn vì nhiều xét nghiệm LDT được bán cho các bác sĩ lâm sàng. Ví dụ: Assurex, công ty tiếp thị các xét nghiệm dược động học GeneSight để tối ưu hóa thuốc điều trị trầm cảm, lo âu hoặc đau đớn, tổ chức các bữa tối mang tính giáo dục cho bác sĩ tâm thần  Các công ty xét nghiệm di truyền khác đã đề nghị thanh toán cho bác sĩ cho mỗi xét nghiệm được yêu cầu như một phần của nghiên cứu có giá trị khoa học không rõ ràng (tức là thử nghiệm mầm)

Các quy định

FDA có thể cải thiện việc quảng cáo xét nghiệm  cho các bác sĩ bằng cách yêu cầu xem xét trước khi đưa ra thị trường các xét nghiệm do bác sĩ yêu cầu để chứng minh các tuyên bố lâm sàng. Ví dụ: một công ty xét nghiệm di truyền DTC, Kailos Genetics, đã nhận được thư vi phạm của FDA vì thiếu đánh giá trước khi đưa ra thị trường, có thể bán cùng loại LDT dược động học chưa được phê duyệt vì hiện cần phải có đơn đặt hàng của bác sĩ.

🚩Hạn chế của báo cáo

Đánh giá này có một số hạn chế.

1️⃣Đầu tiên, chi tiêu cho tiếp thị y tế bị đánh giá thấp. Không thể lấy được dữ liệu về tiếp thị chuyên nghiệp (ví dụ: chi tiết) các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, dịch vụ hoặc thiết bị y tế cũng như chi tiêu của công ty dược phẩm cho phiếu giảm giá hoặc giảm giá, khuyến mãi trực tuyến cũng như các cuộc họp và sự kiện. Ngoài ra, hệ thống Thanh toán mở của Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid không thu các khoản thanh toán khuyến mại của các công ty LDT cho các XN không được phê duyệt hoặc phí diễn giả cho CME được công nhận nếu hoạt động này được hỗ trợ bởi một khoản trợ cấp không hạn chế hoặc một tổ chức phi lợi nhuận. Việc tiếp thị bệnh cho các chuyên gia bị đánh giá thấp vì chi tiết, quảng cáo trên tạp chí y khoa và hầu hết các khoản thanh toán trực tiếp đều được cho là do tiếp thị thuốc. Ngoài ra, ước tính chi tiêu còn khác nhau tùy theo nguồn dữ liệu và phương pháp. Ví dụ, năm 2004, số tiền chi tiêu cho việc cung cấp thông tin chi tiết cho bác sĩ được ước tính là 10,6 tỷ USD (dữ liệu hiện tại của IQVIA) so với 20 tỷ USD (theo báo cáo của Cegedim.

2️⃣ Tiếp theo, ngân sách tiếp thị của công ty thường bao gồm nhiều hoạt động và chi phí khác mà dữ liệu hiện có có thể không nắm bắt được. chẳng hạn như chi phí nhân viên tiếp thị, đào tạo đại diện bán hàng, nghiên cứu để hướng dẫn nỗ lực tiếp thị, phân tích để đánh giá lợi tức đầu tư từ các lựa chọn tiếp thị, tiền trả cho đại lý quảng cáo, công ty truyền thông y tế, công ty quan hệ công chúng, quảng cáo không được giám sát (ví dụ: bệnh nhân hỗ trợ các tổ chức từ thiện và các nhóm vận động, giảm giá, khuyến mãi cho người trả tiền), vận động hành lang và đóng góp cho chiến dịch.

3️⃣Thứ ba, tài liệu đã xuất bản phân tích lợi tức đầu tư vào tiếp thị y tế hoặc các tác động liên quan đến chi phí, việc sử dụng và kết quả y tế, đặc biệt đối với dịch vụ y tế, quảng cáo thử nghiệm trong phòng thí nghiệm và cho các phương tiện truyền thông mới hơn (ví dụ: phương tiện truyền thông xã hội, quảng cáo trực tuyến), bị hạn chế và chủ yếu dựa trên dữ liệu quan sát và do đó ngăn cản việc đưa ra kết luận chắc chắn.

🍁Kết luận và mức độ liên quan:
🚩Tiếp thị y tế đã tăng đáng kể từ năm 1997 đến năm 2016, đặc biệt là quảng cáo DTC cho thuốc kê đơn theo toa và dịch vụ y tế.
🚩Tiếp thị dược phẩm cho các chuyên gia y tế chiếm phần lớn chi tiêu và vẫn ở mức cao ngay cả khi có các chính sách mới nhằm hạn chế ảnh hưởng của ngành.
Mặc dù hoạt động tiếp thị đã gia tăng trong hơn 20 năm qua, việc giám sát theo quy định vẫn còn hạn chế.

Tham khảo

Schwartz, L. M., & Woloshin, S. (2019). Medical Marketing in the United States, 1997-2016. JAMA321(1), 80–96. https://doi.org/10.1001/jama.2018.19320.

Long Tran dịch.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

14 Vũ Trọng Phụng, Thanh Xuân, Hà Nội.

Hotline

Hotline

(+84)365 999 115

Email

Email

info@herac.org

Liên hệ

Liên hệ

với HERAC